Tôi là một tiểu thuyết gia nên chúng ta hãy bắt đầu bằng một câu chuyện ngắn. Giả sử bạn là một phi hành gia trên con tàu vũ trụ bị mất kiểm soát và đâm vào một hành tinh lạ. Khi bạn tỉnh lại và biết mình không bị thương nghiêm trọng, ba câu hỏi đầu tiên trong đầu bạn sẽ là: Tôi đang ở đâu? Làm sao tôi biết được điều đó? Tôi nên làm gì?
Bạn nhìn thấy thảm thực vật xa lạ bên ngoài và có không khí để thở. Ánh sáng mặt trời ở đây dường như nhợt nhạt hơn và không khí cũng lạnh hơn so với những gì có trong ký ức của bạn. Bạn nhìn lên bầu trời nhưng chợt dừng lại. Trong đầu đột ngột xuất hiện ý nghĩ: nếu không nhìn, mình sẽ không phải biết rằng có lẽ bản thân đã cách trái đất quá xa và có thể không quay về được nữa. Miễn là bạn không phát hiện ra, bạn có thể tự do tin những gì bạn muốn. Rồi bạn trải qua một niềm hy vọng mơ hồ, nhẹ nhàng nhưng tội lỗi một cách khó hiểu. Bạn nhìn sang các thiết bị. Chúng có thể bị hư hại nhưng bạn không biết mức độ nghiêm trọng đến đâu. Rồi bạn chựng lại, nỗi sợ hãi bất thình lình xâm chiếm: làm sao mình có thể tin tưởng các thiết bị này? Làm sao chắc chắn chúng không làm mình lạc hướng? Làm sao biết được liệu chúng có hoạt động trong một thế giới khác không? Bạn không nhìn chúng nữa.
Bây giờ bạn bắt đầu tự hỏi tại sao bạn không muốn làm gì cả; dường như sẽ an toàn hơn nhiều nếu chỉ chờ đợi thứ gì đó xuất hiện bằng cách nào đó. Bạn nói với chính mình tốt hơn là không lúc lắc tàu vũ trụ. Xa xa, bạn thấy những sinh vật sống đang tiến đến. Bạn không biết liệu chúng có phải là con người hay không dù chúng đi bằng hai chân. Bạn quyết định chính chúng sẽ cho bạn biết phải làm gì. Không còn bất kì tin tức nào về bạn nữa. Bạn có thể nói đây là tưởng tượng thôi, phải không? Bạn sẽ không hành động như vậy, và không có phi hành gia nào từng làm vậy cả, đúng không? Có lẽ thế. Nhưng đây là cách mà con người đang sống, ở đây, trên trái đất này.
Đa số mọi người dành nhiều ngày chật vật để trốn tránh ba câu hỏi mà câu trả lời là cơ sở cho mọi tư duy, cảm giác và hành động của con người, cho dù họ có ý thức về nó hay không: Tôi đang ở đâu? Làm thế nào để tôi biết điều đó? Tôi nên làm gì?
Đến khi đủ trưởng thành để hiểu những câu hỏi này, con người tin rằng họ biết câu trả lời. Tôi đang ở đâu? - thành phố New York. Làm thế nào tôi biết điều đó? Đó là hiển nhiên. Tôi nên làm gì? Đến câu hỏi này, họ không quá tự tin, nhưng đáp án thường là bất cứ điều gì người khác làm. Vấn đề duy nhất là dường như họ không quá chủ động, không quá tự tin, không quá vui vẻ; đôi khi họ trải qua nỗi sợ hãi vô cớ và cảm giác tội lỗi không tên mà họ không thể nào giải thích hoặc bỏ qua. Họ chưa bao giờ phát hiện ra sự thật rằng phiền hà bắt đầu từ ba câu hỏi không đáp án cũng như không bao giờ biết rằng chỉ có một loại khoa học duy nhất có thể trả lời ba câu hỏi đó: Triết học.
Triết học nghiên cứu bản chất cơ bản về sự tồn tại, về con người và về mối quan hệ của con người đối với sự tồn tại. Khác với những ngành khoa học đặc thù chỉ nói về những khía cạnh riêng biệt, triết học nói về các khía cạnh của vạn vật, liên quan đến mọi thứ tồn tại. Về mặt nhận thức, các ngành khoa học đặc thù là những cái cây, còn triết học là mảnh đất để nuôi dưỡng cây thành rừng. Ví dụ, triết học sẽ không cho bạn biết bạn đang ở thành phố New York hay ở Zanzibar dù nó sẽ cho bạn phương thức để tìm ra. Triết học cho bạn biết: Bạn có đang ở trong một vũ trụ được chi phối bởi các quy luật tự nhiên và vì thế mà ổn định, vững chắc, bất biến và có thể nhận biết được? Hay bạn đang ở trong những hỗn loạn khó hiểu, ở nơi của những điều lạ kỳ không thể giải thích, những biến chuyển không thể dự báo và biết trước, mà tâm trí bạn không thể nào nắm bắt? Liệu những thứ xung quanh bạn là thật hay chỉ là ảo ảnh? Chúng có tồn tại độc lập với bất kì quan sát viên hay chúng được tạo ra bởi họ? Chúng là khách thể hay chủ thể của ý thức? Liệu chúng là chúng hay có thể bị thay đổi bởi một hành động đơn thuần của ý thức, ví dụ như một điều ước? Bản chất của hành động và của khát vọng trong bạn sẽ khác nhau tùy thuộc vào tập hợp các câu trả lời mà bạn chấp nhận. Những câu trả lời này thuộc phạm vi của siêu hình học (metaphysics), một nhánh cơ bản của Triết học nghiên cứu về sự tồn tại mà theo Aristotle là “bản chất với tư cách bản chất” (being qua being).
Dù cho bạn đi đến kết luận nào, bạn sẽ buộc đối mặt với việc trả lời một câu hỏi tất yếu khác: làm thế nào tôi biết điều đó? C on người không thông suốt hoặc không sai lầm nên bạn phải hiểu điều gì có thể tuyên bố như là nhận thức và cách chứng minh những kết luận của bạn có giá trị. Con người đạt được nhận thức thông qua sự phát triển của tâm trí hay nhờ sự tiết lộ đột ngột từ một sức mạnh siêu nhiên? Lý trí là khả năng nhận biết và kết hợp thông tin do các giác quan của con người cung cấp hay được nuôi dưỡng bởi những ý tưởng bẩm sinh, được cấy vào tâm trí một người trước khi sinh ra? Liệu lý trí có khả năng nhận thức được thực tế hay con người sở hữu một năng lực nhận thức nào đó vượt qua cả lý trí? Liệu con người có thể đạt được sự hiểu biết hoàn toàn hay họ cam chịu hồ nghi vĩnh viễn? Phạm vi của sự tự tin và của sự thành công sẽ khác nhau tùy theo tập hợp các câu trả lời mà bạn chấp nhận. Những câu trả lời này là chủ đề của nhận thức luận (epistemology) – hay lý thuyết nhận thức, nghiên cứu phương tiện nhận thức của con người.
Hai nhánh này là nền tảng lý thuyết của triết học.
Nhánh thứ ba, đạo đức học (ethics), có thể được coi là ngành ứng dụng của triết học. Đạo đức học không áp dụng cho mọi vật tồn tại mà chỉ dành cho con người, nhưng lại áp dụng cho mọi khía cạnh cuộc sống của con người: tính cách, hành động, giá trị, mối quan hệ đối với toàn bộ sự tồn tại. Đạo đức học hay luân lý học xác định tập hợp các giá trị dẫn dắt lựa chọn và hành động của con người: những lựa chọn và hành động định hướng đời người. Giống như phi hành gia trong câu chuyện của tôi, không biết nên làm gì vì anh ta từ chối việc biết mình đang ở đâu và làm thế nào để khám phá ra nó. Vì vậy, bạn không thể biết bạn nên làm gì cho đến khi bạn biết được bản chất của vũ trụ mà bạn đối mặt, bản chất của phương tiện nhận thức và bản chất của chính bạn. Trước khi bạn có nhận thức về đạo đức, bạn phải trả lời các câu hỏi được đưa ra bởi siêu hình học và nhận thức luận: Con người có thể trở nên có lý trí để đương đầu với thực tế hay con người là một kẻ lạc lối, mù quáng, bất lực, một mảnh vỡ bị xô đẩy bởi sự thay đổi của vũ trụ? Liệu con người trên trái đất có khả năng đạt được thành tựu và niềm vui hay anh ta cam chịu thất bại và bất hạnh? Tùy thuộc vào câu trả lời, bạn có thể tiến hành xem xét các câu hỏi được đặt ra bởi đạo đức học. Điều gì tốt, xấu cho con người và tại sao? Mối quan tâm hàng đầu của con người nên là đi tìm niềm vui hay chạy trốn nỗi đau? Con người nên xem việc tự hoàn thiện hay tự hủy hoại là mục tiêu của đời mình? Con người nên theo đuổi giá trị của mình hay nên đặt lợi ích của người khác lên trên? Con người nên tìm kiếm hạnh phúc hay tự hy sinh?
Tôi không cần phải chỉ ra những hệ quả khác nhau của hai bộ câu trả lời này. Bạn có thể nhìn thấy sự khác biệt khắp nơi, bên trong chính bạn và xung quanh bạn. Các câu trả lời được đưa ra bởi đạo đức học quyết định cách con người nên đối xử với những người khác và quyết định nhánh thứ tư của triết học: chính trị học– xác định các nguyên tắc của một hệ thống xã hội đúng đắn. Về chức năng triết học, triết học chính trị sẽ không cho bạn biết bạn nên được nhận bao nhiêu phần khí đốt và vào ngày nào trong tuần. Nó sẽ cho bạn biết liệu chính phủ có quyền áp đặt bất kỳ định mức lên bất cứ thứ gì hay không.
Nhánh thứ năm và là nhánh cuối cùng của triết học: mỹ học_nghiên cứu về nghệ thuật dựa trên siêu hình học, nhận thức luận và đạo đức học. Nghệ thuật giải quyết nhu cầu, tiếp nhiên liệu cho ý thức của con người.
Bây giờ một số bạn, giống như nhiều người khác, có thể nói rằng: Ồ, tôi chưa từng biết những điều trừu tượng như vậy. Tôi muốn giải quyết các vấn đề cụ thể, chuyên biệt và có thực trong cuộc sống. Tôi cần triết học để làm gì? Câu trả lời của tôi là để có thể giải quyết các vấn đề cụ thể, chuyên biệt và có thực trong cuộc sống; đó là để có thể sống trên trái đất này.
Bạn có thể tuyên bố, như hầu hết mọi người, rằng bạn chưa bao giờ bị ảnh hưởng bởi triết học. Tôi sẽ yêu cầu bạn kiểm tra tuyên bố này. Bạn đã bao giờ nghĩ hoặc nói những điều như: Đừng quá chắc chắn - không ai có thể chắc chắn về bất cứ điều gì. Bạn mượn nó từ David Hume (và nhiều những triết gia khác), mặc dù bạn có thể chưa nghe nói về ông ta bao giờ. Hoặc như điều này có thể đúng theo lý thuyết, nhưng nó không áp dụng được trong thực tế. Bạn mượn nó từ Plato. Hoặc đó thật là một việc làm đáng ghê tởm nhưng con người mà, không ai hoàn hảo trong thế giới này. Bạn mượn nó từ Augustine. Hoặc nó có thể đúng với bạn nhưng không đúng với tôi. Bạn đã mượn nó từ William James. Hoặc tôi không thể chịu đựng nữa! Không ai có thể chịu đựng bất cứ điều gì anh ấy làm. Bạn mượn nó từ Hegel. Hoặc tôi không thể chứng minh được, nhưng tôi cảm thấy nó đúng. Bạn mượn từ Kant. Hoặc nó logic đó, nhưng logic không áp dụng được trong thực tế. Bạn mượn nó từ Kant. Hoặc nó xấu xa vì nó ích kỷ. Bạn mượn nó từ Kant. Bạn có từng nghe các nhà hoạt động xã hội hiện đại nói: Hành động trước, suy nghĩ sau? Họ mượn nó từ John Dewey. Một số người có thể trả lời: Chắc chắn rồi! Tôi nói những điều đó vào các thời điểm khác nhau, nhưng không phải lúc nào tôi cũng tin chúng. Hôm qua nó có thể đúng, nhưng hôm nay thì không. Họ mượn nó từ Hegel. Họ có thể nói: sự kiên định là “điều quái quỷ” của những bộ óc bé nhỏ. Họ đã mượn nó từ một bộ óc rất nhỏ, Emerson. Họ có thể nói: nhưng không thể thỏa hiệp và mượn những ý tưởng khác nhau từ những triết lý khác nhau, vì tư lợi nhất thời. Họ mượn nó từ Richard Nixon và ông mượn nó từ William James.
Hãy tự hỏi, nếu bạn không quan tâm đến những ý tưởng trừu tượng, tại sao bạn (và tất cả mọi người) cảm thấy bắt buộc phải sử dụng chúng? Thực tế là các ý tưởng trừu tượng chính là những tổ hợp khái niệm bao hàm vô số điều cụ thể. Và nếu không có những ý tưởng trừu tượng, bạn sẽ không thể giải quyết các vấn đề thực tế, cụ thể và hoàn chỉnh. Bạn sẽ như một đứa trẻ sơ sinh: mọi vật là một hiện tượng chưa từng có và duy nhất. Sự khác biệt giữa trạng thái tinh thần của đứa trẻ và của bạn nằm ở số lượng tổ hợp khái niệm mà trí óc bạn đã thực hiện. Bạn không có chọn lựa nào khác về sự tất yếu để kết hợp các quan sát, kinh nghiệm, nhận thức của bạn vào các ý tưởng trừu tượng, hay nói cách khác là vào những nguyên tắc. Lựa chọn duy nhất của bạn là liệu những nguyên tắc này đúng hay sai, liệu chúng đại diện cho phán đoán đầy lý trí và tỉnh táo hay chỉ là một mớ hỗn tạp những khái niệm bị chộp lấy một cách ngẫu nhiên mà bạn không biết gì về nguồn gốc, giá trị, bối cảnh và hậu quả của nó, những khái niệm mà thường thường bạn sẽ vứt đi ngay lập tức nếu bạn hiểu.
Nhưng các nguyên tắc mà bạn chấp nhận, ý thức hay vô thức, có thể xung đột hoặc phủ định lẫn nhau. Chúng cũng phải được hợp nhất. Cái gì hợp nhất chúng? Triết học. Hệ thống triết học là quan điểm tổng hợp về sự tồn tại. Là con người, bạn không có chọn lựa về việc bạn cần triết học; lựa chọn duy nhất của bạn đó là HOẶC bạn xác định triết lí của mình bằng một quá trình tư duy có kỷ luật, lý trí, tỉnh táo và cân nhắc logic một cách thận trọng; HOẶC để tiềm thức của bạn tích lũy một mớ vứt đi, các kết luận tùy tiện, những khái quát sai lầm, những mâu thuẫn không rõ, những khẩu hiệu lộn xộn, những mong muốn mơ hồ, những hồ nghi và những sợ hãi; chúng bị vứt ngẫu nhiên vào nhau, nhưng tất cả chúng lại được tiềm thức của bạn hợp nhất thành một loại triết học hỗn tạp và bị gắn vào một thứ vô cùng nặng nề: sự tự ti – như xiềng xích trói buộc sự phát triển của đôi cánh lý trí.
Theo dõi toàn bộ nội dung tại Reason LLC Channel để có thể tự tìm thấy câu trả lời cho chính mình.
Cảm ơn quý độc giả đã theo dõi.